Đương nhiên Ô Nhã Tú Trinh hiểu rõ, hài tử trong bụng Quách Lạc La thị này có thể giữ được hay không, nàng tuyệt nhiên sẽ không dại dột mạo hiểm, mà chỉ khuyên Quách Lạc La thị nên nhân cơ hội này dạy nàng cưỡi ngựa.
Thái hậu nghe Ô Nhã Tú Trinh nhắc đến chuyện cưỡi ngựa liền nổi hứng, hứng trí bừng bừng đứng dậy:
“Đi ra sân chơi một lát đấm hoàn, vận động gân cốt chút.”
Đấm hoàn cũng tương tự như trò đánh cầu khi cưỡi ngựa, chỉ khác là dùng gậy dài đánh những quả cầu nhỏ, trên mặt đất có hố, cầu lọt hố thì tính thắng. Trên thảo nguyên thường có hoạt động như thế, Thái hậu rất thích, liền sai người chuẩn bị mấy bộ ngay trong Từ Ninh Cung.
Ô Nhã Tú Trinh cũng yêu thích trò này. Vừa không cần phải chạy nhảy nhiều, vừa giữ được dáng vẻ đoan trang, chơi lại lưu loát, ai mà chẳng thích?
Riêng Quách Lạc La thị thì không muốn tham gia, sợ nhỡ có cây gậy nào lỡ tay chạm trúng bụng mình, dứt khoát từ chối vài câu rồi chỉ đứng bên cạnh xem.
“Vẫn là Tú Trinh chơi hay nhất.” Thái hậu khen:
“Tú Trinh chơi rất nghiêm túc, ai gia cùng nàng chơi thật đã, đổi sang người khác thì cứ lúng túng, làm đi làm lại chẳng thấy thoải mái.”
Ô Nhã Tú Trinh cười tủm tỉm:
“Ấy là vì các nàng cố kỵ Thái hậu, sợ ngài nổi giận, lại hại đến thân thể. Còn thần thϊếp biết rõ, Thái hậu nương nương rộng lượng, quyết sẽ không vì mấy chuyện này mà tức giận đâu.”
Quách Lạc La thị chỉ nheo mắt đứng cạnh nhìn - nịnh hót lấy lòng vua, thật giỏi!
Ô Nhã Tú Trinh vốn biết phải nói lời gì mới có thể khiến lão thái thái vui vẻ. Bản thân nàng thích nghe gì, chẳng lẽ nàng lại không rõ? Thái hậu được nàng khéo léo nịnh hót, vui vẻ vô cùng. Vì thế, đến lúc Ô Nhã Tú Trinh rời Từ Ninh Cung, trong tay nàng đã đầy ắp ban thưởng của Thái hậu.
Nhìn cảnh ấy, Quách Lạc La thị vừa hâm mộ vừa ganh tỵ, đỏ mắt nói:
“Không biết ngươi học ở đâu cái lối lời ngon tiếng ngọt đó, cứ như một đêm liền thay đổi tính nết vậy.”
Ô Nhã Tú Trinh mỉm cười đáp:
“Đâu có thay đổi gì, ngươi lại không phải Thái hậu, ta cần gì phải dẻo miệng với ngươi chứ?”
Quách Lạc La thị nghe xong, nghĩ lại cũng phải. Hai người vốn chẳng phải tỷ muội thân thiết, nàng ta cũng không phải chủ tử của Vĩnh Hòa Cung, Ô Nhã Tú Trinh cần gì phải phí lời lấy lòng?
Ô Nhã Tú Trinh lại cười nói tiếp:
“Hơn nữa, ta nào phải lấy lòng Thái hậu nương nương. Thái hậu từ ái, nhiều lần chiếu cố ta. Ta chẳng phải kẻ vô tâm vô phổi, cũng chẳng phải hạng lòng lang dạ sói. Đối với nương nương, có báo đáp bao nhiêu cũng chẳng đủ.”
Quách Lạc La thị nghe vậy, không tiện tiếp lời. Chẳng lẽ có thể châm chọc Ô Nhã Tú Trinh là “nịnh bợ”? Nếu nàng ta là kẻ nịnh bợ, vậy Thái hậu chẳng phải là người bị xu nịnh sao?
Cứ thế, hai người nói chuyện càng lúc càng không hợp. Quách Lạc La thị thấy Ô Nhã Tú Trinh nói năng quanh co, lòng dạ khó đoán, không thật thành. Ngược lại, Ô Nhã Tú Trinh lại cho rằng Quách Lạc La thị chẳng hiểu nhân tình thế thái, chỉ biết ngồi trên cao mà phán. Thế nên, tốt nhất là đường ai nấy đi, ai về nhà nấy.
Chẳng bao lâu, nhà họ Ô Nhã gửi thư tới, báo tin đại ca của Ô Nhã Tú Trinh năm nay sẽ tham gia khoa cử. Đại ca nàng đã ngoài hai mươi, từ hai năm trước đã thành thân, dưới gối có một con trai, tuổi còn lớn hơn Dận Chân ba tuổi.
“Khoa thi mùa thu?” Nghe tin này, Ô Nhã Tú Trinh chợt giật mình. Bây giờ đã là tháng bảy, chẳng phải tháng sau là thi mùa thu rồi sao?
A Lan đáp:
“Đúng vậy, đại thiếu gia đã qua khảo thí đồng sinh, kế tiếp chính là khoa thi mùa thu.”
Nếu thi đỗ mùa thu này thì sang năm có thể dự thi mùa xuân, hoặc đợi ba năm sau. Người thường đều chọn ba năm sau, bởi vì thi Tú tài và thi Cử nhân là hai chuyện hoàn toàn khác.
Thi Tú tài, chỉ cần thuộc làu Tứ Thư Ngũ Kinh, hiểu sâu và có thể giải nghĩa, tốt nhất là nêu ra quan điểm riêng của mình. Nhưng thi Cử nhân lại là làm văn, phải viết ra chính kiến riêng, càng độc đáo càng chứng tỏ trình độ cao, càng dễ đỗ.
Vậy nên, khác biệt lớn nhất chính là: có hay không có chủ kiến.
Thông thường, sau khi đỗ Tú tài, rất ít ai có thể ngay lập tức thay đổi tư duy để dự thi Cử nhân trong thời gian ngắn. Thêm nữa, thi Cử nhân còn cần liên danh giới thiệu.